Còn gọi là cao lương khương, tiểu lương khương, phong khương, galanga

Tên khoa học Alpinia officinarum Hance

Thuộc họ Gừng Zingiberaceae

Cao lương khương hay lương khương (Galanga hay Rhizoma Alpiniae officinarum) là thân rễ phơi khô của cây riềng

Vì đây là một loại gừng mọc ở quận Cao Lương, do đó có tên này (khương là gừng)

1. Mô tả cây

Riềng là một loại cỏ nhỏ, cao chừng 0,7-1,2m. Thân rễ mọc bò ngang, dài, hình trụ, đường kính 12-18mm, màu đỏ nâu, phủ nhiều vẩy, chia thành nhiều đốt không đều nhau, màu trắng nhạt. Lá không có cuống, có bẹ, hình mác dài, nhẵn, dài 22-40mm. Cụm hoa hình thùy, mọc ở đầu cành, có lông măng dài chừng 10cm. Hoa rất sít nhau, mặt trong màu trắng, mép hơi mỏng, kèm hai lá bắc hình mo, một có màu xanh, một có màu trắng. Tràng hình ống, có 3 thùy tù, hình thon, dài từ 15-20mm, rộng từ 4-5mm, thùy giữa chỉ hơi lớn hơn các thùy khác, cánh môi hình trứng, dài 20mm, rộng 15-18mm, màu trắng, có vạch màu đỏ sim. Quả hình cầu có lông. Hạt có áo hạt.

2. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây riềng mọc hoang và được trồng ở khắp nước ta để làm gia vị và làm thuốc. Có cả ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Đài Loan)

Có thể thu hái quanh năm, thường đào vào mùa thu đông hoặc sang xuân trước vụ mưa phùn để dễ phơi, sấy

Loại trồng thì đào vào 7-10. Đào về, rửa sạch đất, cắt bỏ lá và rễ con, vẩy lá rồi cắt thành từng đoạn 4-6cm, phơi khô là được

3. Thành phần hóa học

Trong riềng có từ 0,5-1% tinh dầu, lỏng sền sệt, màu vàng xanh, có mùi long não, trong đó chủ yếu có xineola và metylxinnamat

Ngoài tinh dầu, trong riềng còn có các chất sau đây:

  • Một chất dầu, có vị cay gọi là galangola
  • Ba chất có tinh thể, không có vị gì, đều là dẫn xuất của flavon. Số lượng ước chừng 0,1%. Ba chất đố là galangin C15H10O5, alpinmin C17H16O6 và kaempferit C16H12O6 (1-2 dioy-4-metoxyflavonon)

4. Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ cao lương khương vị cay, tính ôn, vào hai kinh tỳ và vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hết đau, tiêu thực.

Được dùng cả trong đông và tây y là thuốc kích thích tiêu hóa, ăn ngon cơm, chữa đầy hơi, đau bụng, đau dạ dày, sốt rét, sốt nóng, đi lỏng, trúng hàn, nôn mửa.

Có khi người ta dùng nhai để chữa đau răng.

Ngày dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay rượu thuốc.

Đơn thuốc có cao lương khương:

  • Chữa đau bụng nôn mửa: cao lương khưởng 8g, đại táo 1 quả. Sắc với 300ml nước, còn 100ml chia 2 hay 3 lần uống trong ngày
  • Chữa sốt, sốt rét, kém ăn: cao lương khương tẩm dầu vừng sao 40g, can khươn g nướng 40g. Hai vị tán nhỏ, dùng mật lợn hòa vào làm thành viên, bằng hạt ngô. Ngày uống 15-20 viên này.

Chú thích:

Ngoài vị riềng kể trên nước ta còn có một vị riềng nữa gọi là riềng nếp Alpinia galanga Swartz cùng họ, cũng được dùng làm gia vị và làm thuốc, nhưng thường không quý bằng loại riềng nói trên. Riềng nếp so với riềng thì to cao hơn, lá cũng hình mác, nhọn, mép lá có dìa trắng, dài 40cm, rộng 7cm, không cuống. Cụm hoa hình chùy dài 15-30cm. Hoa trắng, điểm hồng, dài 20-25cm, tràng hình ống ngắn không vượt quá đài. Quả hình cầu hay hình trứng, dài 12mm, rộng 8mm, màu đỏ nâu.

Thân rễ to thô bán tại thị trường với tên đại cao lương khương, đài 8-20cm, đường kính 1,5-3cm, màu nâu hồng nhạt, mùi vị không thơm như cao lương khương

Cùng có nơi dùng như cao lương khương chữa đau bụng, đi ỉa, nôn mửa, đi lỵ. Phối hợp với than tóc rối, uống chữa ngộ độc thịt cóc

——–

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi