Còn gọi là rau thìa là, phak si (Lào-Vientian), aneth (Pháp)

Tên khoa học Anethum graveolens L. (Peucedanum graveolens Benth, et Hook.)

Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umnelliferar)

Thìa là cho quả dùng làm thuốc

1. Mô tả cây

Cỏ nhỏ mọc hàng năm, ít phân nhánh, thân nhẵn, cao 0,3-1m, lá xẻ ba thành những phiến nhỏ hình sợi, vò có mùi thơm dễ chịu, nhưng có người cho là khó chịu. Hoa màu vàng nhạt, mọc thành tán to thường gồm 10 gọng không tổng bao và tiểu bao. Quả hình trứng, dài 3mm, rộng 1,5mm, dẹt ở lưng, phân liệt quả tách nhau dễ dàng, có 3 sống dọc nổi.

Sự tích cây thì là Truyện cổ tích ý nghĩa về các loài cây

2. Phân bố, thu hái và chế biến

Thìa là được trồng khắp nơi ở nước ta nhưng chủ yếu chỉ để lấy lá ăn, thường nấu với cá. Làm thuốc chỉ dùng quả. Nhưng thường nước ta không thu hái quả làm thuốc, gần đây đã dùng quả làm hương liệu cho chè uống. Tại các nước Trung Á, sau lan sang châu Âu người ta trồng và lấy quả làm thuốc. Trước đây, Pháp mua về dùng và bán sang ta, trong khi cây mọc ở ta nhưng không dùng. Quả hái về phơi khô là được.

3. Thành phần hóa học

Trong quả thìa là có từ 3-4% tinh dầu. Tinh dầu không màu hay hơi vàng, tỷ trọng 0,9-0,915, quay phải +70O-+80O. Thành phần chủ yếu trong tinh dầu là d.limonen, phellandren, 40-60% d.cacvon, một ít paraffin. Trong tinh dầu thì là của Ấn Độ còn chứa dillapiol. Theo Schimmel, tinh dầu thìa là của Tây Ban Nha cất từ toàn cây chỉ chứa có 20% cacvon, không có limonen, chỉ có phelandren.

4. Công dụng và liều dùng

Quả thìa là (nhân dân vẫn gọi nhầm là hạt thìa là) được dùng làm thuốc kích thích trung tiện, lợi sữa. Còn dùng chữa đau bụng của trẻ em.

Dùng dưới hình thức nước cất quả thìa là: mỗi ngày uống 50-100g để giúp sự tiêu hóa. Hoặc dưới dạng thuốc pha: 4-8g trong 1 lít nước. Nếu dùng tinh dầu thì mỗi ngày 250mg đến 1g, nhỏ vào đường hay nước đường mà uống.

Trong công nghiệp hương liệu, quả thìa là được dùng phối hợp với một số quả khác như mùi, để làm thơm chè.

——–

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi